Thực trạng lao động Việt Nam là một trong những từ khóa được search nhiều nhất trên google và được các bạn quan tâm rất nhiều. Trong bài viết này, giaiphapvieclam.com sẽ viết bài Thực trạng lao động Việt Nam 2019 và một số vấn đề đặt ra
Thực trạng lực lượng lao động Viet Nam và một số vấn đề đặt ra
Trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề lao động có vai trò cần thiết, đưa tính cấp thiết, dài hạn đối với thành đạt vững bền nền kinh tế.
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, nhiều phương pháp tạo việc làm cho người lao động, khắc phục chủ đề lao động – việc sử dụng đang được các cấp, các ngành để ý nhằm tạo động lực xúc tiến tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị – xã hội. không những thế, chất lượng lao động giới hạn đang ngày càng gây nên những sức ép lớn so với vấn đề giải quyết việc sử dụng cho người lao động. cho nên, việc làm rõ thực trạng và những vấn đề còn tồn tại của lao động VN trong giai đoạn hiện nay là một chủ đề quan trọng.
Xem thêm: Top 10 Bí Quyết Tạo Dựng Phong Cách Làm Việc Chuyên Nghiệp
Thực trạng lực lượng lao động tại Viet Nam
VN là nước có quy mô dân số to, tháp dân số tương đối trẻ và bắt đầu bước vào thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” với nguồn nhân công dồi dào nhất từ trước đến nay. Tính đến hết năm 2017, dân số nước ta đạt 96,02 triệu người, trong đó nữ chiếm khoảng 48,94%. tăng trưởng dân số trong những năm qua kéo theo tăng trưởng về lực lượng lao động. Quan sát chung, mỗi năm Việt Nam có khoảng gần 1 triệu người bước vào độ tuổi lao động, đây là một lợi thế cạnh tranh quan trọng của Viet Nam trong việc thu hút đầu tư nước ngoài góp phần tăng trưởng kinh tế – thế giới.
Xét cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính, % lao động nam lại nhiều hơn nữ với trên 50% lao động là nam giới. tuy nhiên, sự chênh lệch này không đáng kể và cho thấy lao động nữ chiếm một lượng đông đảo. tỷ lệ thất nghiệp của lao động nữ khá cao so với lao động nam do hạn chế về thể trạng, những tranh chấp giữa sinh đẻ và làm việc, cơ hội tìm được việc làm vừa ý sau khi sinh là thấp.
ngày nay, lực lượng lao động luôn luôn hội tụ đông nhất ở khu vực Đồng bằng sông Hồng (chiếm trên 22%), tiếp đến là khu vực Bắc trung bộ, Duyên hải miền Trung (trên 21%) và Đồng bằng sông Cửu Long. Đây là các khu vực có diện tích đất rộng, hội tụ nhiều Tp lớn, khu đô thị và nhiều khu công nghiệp, thuận lợi cho việc sản xuất kinh doanh nên thu hút đông đảo lao động tập trung ở những khu vực này. Những khu vực chiếm phần trăm thấp, là những khu vực có diện tích đất hẹp, nhiều đồi núi, ít khu đô thị và khu công nghiệp nên không thu hút nhiều lao động đến đây.
Cơ cấu lực lượng lao động phân theo 2 khu vực thành thị và nông thôn cũng có sự chênh lệch to. Nhìn chung, lực lượng lao động ở nước ta chủ yếu tụ hội ở khu vực nông thôn, chiếm khoảng gần 70%. con số này có khuynh hướng giảm qua các năm nhưng vẫn ở mức cao. Cả nước hiện có khoảng 17 triệu thanh niên nông thôn có độ tuổi từ 15-30, chiếm 70% số thanh niên và 60% lao động nông thôn. ngoài ra, 80% trong số này chưa qua training chuyên môn. Đặc điểm này là trở ngại lớn cho lao động nông thôn trong tìm kiếm việc sử dụng. Tính đến năm 2017, dân số trong độ tuổi lao động của VN là hơn 72,04 triệu người (chiếm khoảng 75% tổng dân số cả nước), trong đó, phần trăm tham dự lực lượng lao động đạt 75,5%, với 54,4 triệu người. đối với năm 2010 (tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 75%), lực lượng lao động tính đến năm 2017 gia tăng cả về tỷ lệ và số lượng tuyệt đối.
Xem thêm: Tổng hợp 10+ đồ Handmade bán chạy nhất, dễ kinh doanh nhất 2020
Một số chủ đề đặt ra
Thời gian qua, mặc dù lực lượng lao động tăng cả về số lượng và trình độ chuyên môn, song luôn luôn còn nhiều vấn đề đặt ra so với lực lượng lao động Việt Nam hiện giờ, cụ thể:
Một là, lao động phân bổ k đều giữa các vùng: Các vùng đất rộng có tỷ trọng lao động thấp (vùng trung du và miền núi phía Bắc chỉ chiếm 13,8% lực lượng lao động, Tây Nguyên chiếm 6,5% lực lượng lao động), phân bổ lao động chưa tạo điều kiện phát huy lợi thế về đất đai, tạo việc làm cho người lao động và ảnh hưởng tích cực đến sự di chuyển lao động từ các vùng nông thôn ra thành thị. Năm 2017, lực lượng lao động chủ yếu tụ họp ở các vùng Đồng bằng Sông Hồng (21,8%), Đồng bằng Sông Cửu Long (19,1%), Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (21,6%), các vùng còn lại chiếm 17,2%.
Hai là, chất lượng lao động thấp, chủ yếu là lao động nông nghiệp, nông thôn, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển: gốc cung lao động ở Việt Nam ngày nay luôn xảy ra tình trạng thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động một số lĩnh vực dịch vụ (ngân hàng, tài chính, thông tin viễn thông, du lịch…) và công nghiệp mới. tỷ lệ lao động được training ngành còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn yếu nên mức độ cạnh tranh thấp. hiện trạng thể lực của lao động Việt Nam ở mức trung bình kém, cả về chiều cao, cân nặng cũng như sức bền, sự dẻo dai, chưa giải quyết được cường độ làm việc và những yêu cầu trong sử dụng máy móc thiết bị theo tiêu chuẩn quốc tế. Kỷ luật lao động của người Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra của công cuộc sản xuất công nghiệp. Một bộ phận lớn người lao động chưa được tập huấn về kỷ luật lao động công nghiệp. phần lớn lao động xuất thân từ nông thôn, nông nghiệp, đưa nặng tác phong sản xuất của một nền nông nghiệp tiểu nông, tùy tiện về giờ giấc và hành vi. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng sử dụng việc theo nhóm, k có khả năng cộng tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ trải nghiệm sử dụng việc.
Ba là, còn nhiều rào cản, hạn chế trong dịch chuyển lao động: phần lớn lao động di cư chỉ tải ký tạm trú, k có hộ khẩu, gặp khó khăn về nhà ở, học tập, chữa bệnh… Trình độ học vấn của lao động di cư thấp và phần đông chưa qua coaching ngành. Hầu hết các khu công nghiệp và khu chế xuất – ngành dùng đến 30% lao động di cư không có dịch vụ hạ tầng thế giới (ký túc xá, nhà trẻ, nhà kiến thức, training nghề, tham gia bảo hiểm xã hội…), lao động di cư ít có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ không gian cơ bản. hiện trạng trên dẫn tới hậu quả là gốc cung lao động không có cấp độ cung cấp nhu cầu tăng trưởng kinh tế của các vùng, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Một số định hình
Xu thế hội nhập và vận dụng khoa học kỹ thuật ngày càng mạnh mẽ sẽ tác động làm chuyển đổi đối tượng lao động, cụ thể sẽ có nhiều lĩnh vực, công việc truyền thống/thủ công sẽ mất đi đồng nghĩa với việc người lao động ở các đất nước sẽ mất đi nhiều việc sử dụng, cơ hội việc sử dụng nhưng nó cũng mở ra cơ hội xuất hiện nhiều ngành, công việc mới đòi hỏi ít nhân lực và chất lượng lao động ở trình độ ngày càng cao hơn.
so với Viet Nam, một đất nước có xuất phát điểm, nền móng, trình độ (công nghệ, nguồn nhân lực…) hạn chế thì phân khúc lao động sẽ gặp nhiều thách thức như: gốc lao động dồi dào, giá tốt sẽ không còn là nguyên nhân tạo nên lợi thế cạnh tranh và lôi kéo đầu tư nước ngoài; áp lực về vấn đề khắc phục việc làm với sự gia tăng phần trăm thất nghiệp hoặc thiếu việc làm; 46 triệu lao động VN (lao động chưa qua đào tạo) đứng trước rủi ro không có thời cơ tham gia sử dụng những công việc có mức doanh thu cao, bị thay thế bởi lao robot, trang thiết bị công nghệ thông minh; Thiếu đội ngũ gốc nhân lực chất lượng cao, nhất là một số ngành/lĩnh vực chủ lực giống như bưu chính, viễn thông và công nghệ thông tin… Chất lượng lao động ở nước ta thấp, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, cơ cấu ngành nghề training có nhiều nguy cơ. Còn thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật trình độ cao, lao động trong một số ngành nghề công nghiệp mới. % lao động được huấn luyện nghề còn thấp, kỹ năng, tay nghề, thể lực và tác phong lao động công nghiệp còn yếu nên cấp độ cạnh tranh của lao động Viet Nam thấp. luôn luôn còn hiện trạng mất cân đối cung – cầu lao động cục bộ giữa các vùng, khu vực, ngành kinh tế. dịch chuyển cơ cấu lao động chậm, lao động chủ yếu sử dụng việc trong khu vực nông nghiệp, khu vực phi chính thức, năng suất thấp… Phương pháp phát triển đối tượng lao động
Nguồn: http://tapchitaichinh.vn
Discussion about this post