Hoạt động xuất khẩu lao động là một trong những keyword được search nhiều nhất trên google về chủ đề hoạt động xuất khẩu lao động Trong bài viết này giaiphapvieclam.com sẽ viết bài Tổng hợp hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam năm 2020.
1. Thực trạng hoạt động xuất khẩu lao động ở Việt Nam
Theo thống kê, số lượng lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài ngày càng gia tăng. phần lớn, người lao động Việt Nam đi sang các thị trường truyền thống giống như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Malaysia, Macau và một số quốc gia Trung Đông… (95%); Số còn lại sang lao động tại một số nước Châu Âu và Châu Mỹ.
Theo Cục quản lý lao động ngoài nước, để đạt mục đích tăng số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài, Cục sẽ thực hiện một số giải pháp trọng tâm như đẩy mạnh tuyên truyền, vận động người lao động sang đối tượng trọng tâm Malaysia; mở rộng các đối tượng mới, phân khúc có thu nhập cao, khuyến khích xuất khẩu lao động có ngành, lao động kỹ thuật, …
so với nguồn lao động dồi dào của Việt Nam hiện tại, thì việc hoàn thành chỉ tiêu chẳng hề là khó. Nếu như trong thời gian qua, các hoạt động liên quan tới việc xuất khẩu lao động được thực hiện nghiêm túc, có sự thống trị tốt, thì hiển nhiên con số đi lao động ở nước ngoài còn lớn hơn nhiều, so với kết quả đã đạt được.
> Luật sư tư vấn pháp luật online qua điện thoại gọi: 1900.6162
xem thêm: tình trạng sinh viên không có việc làm còn công ty không tuyển được lao động
Một thực tế đáng buồn hiện nay là nguồn lao động của VN đang bị lãng phí rất lớn. Có rất nhiều người lao động vừa mới phải chờ được đi xuất khẩu lao động ở các Trung tâm hay doanh nghiệp xuất khẩu lao động không có quá đủ chức năng và cả ở những Trung tâm, doanh nghiệp xuất khẩu lao động “không có thực”. nguồn lao động này chủ yếu là những người nông dân vừa mới chờ mong một cơ hội để thay đổi cuộc sống. không những thế, niềm hy vọng đó của nhiều người vừa mới ngày càng bị mai một bởi những chiêu thức scam quá tinh vi và bởi cả những khoản nợ chồng chất do đi vay để nộp tiền đặt cọc để được đi xuất khẩu lao động. Và thêm vào đó là hàng loạt các rủi ro khác như: không xuất khẩu lao động được sau một thời gian dài mong đợi và cũng k thể get lại được số tiền đã đặt cọc, hoặc nếu có thì chỉ là một phần nhỏ.
thực tiễn cho thấy, số vụ scam không những đã grow up hàng năm mà diễn biến của nó cũng hết sức phức tạp với nhiều thủ đoạn tinh vi hơn. Bên cạnh việc tuyển nhân viên lao động bất hợp pháp của một số cán bộ chi nhánh, trung tâm thuộc một số công ty đầu mối là sự xuất hiện một số công ty k có chức năng này cũng làm công tác tư vấn và thu tiền bất hợp pháp của người lao động dưới danh nghĩa đưa đi học và làm việc tại nước ngoài. Có trường hợp thị trường lừa đảo còn chọn vị trí ngay gần các công ty có uy tín, brand trong lĩnh vực này để hoạt động. ngoài ra, chúng còn thông qua các trung tâm đào tạo nghề, thành lập các doanh nghiệp ở vị trí lẩn khuất, giả danh cán bộ đi tuyển sinh, đưa người lao động đi học để gây được niềm tin… Vì thế mà nhiều người sau một thời gian dài đi học, đang đóng một khoản tiền lớn cho chân gỗ mới hay mình bị lừa.
hiện giờ, việc đưa người lao động đi xuất khẩu lao động nước ngoài là một trong những hoạt động hấp dẫn khá nhiều các thị trường tham gia. Những quyền lợi trước mắt trong việc đưa người đi lao động khiến cho nhiều tổ chức tham gia vào hoạt động này. Nhưng đáng tiếc là họ không đủ cấp độ. phân khúc lao động nước ngoài mặc dù mang lại cho gốc lao động trong nước thời cơ làm việc với mức thù lao lớn hơn trong nước nhưng nó cũng có rất nhiều chủ đề pháp lý liên quan. Nếu không nắm bắt rõ được các quy định của cả trong nước và nước ngoài thì ích lợi của người lao động Viet Nam sẽ rất khó được đảm bảo.
xem thêm: tình trạng sinh viên không có việc làm còn công ty không tuyển được lao động
Theo quy định tại mục c khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Viet Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 thì doanh nghiệp dịch vụ có nghĩa vụ “kết hợp với chính quyền địa phương thông báo công khai, cung cấp cho người lao động đa số các thông tin về tỉ lệ, tiêu hợp lý tuyển lựa chọn và các điều kiện của Hợp đồng mang người lao động đi làm việc ở nước ngoài”. không những thế, qua tìm hiểu từ những người lao động đang từng đi tải ký ở một số doanh nghiệp, Trung tâm xuất khẩu lao động nước ngoài (hiện nay vừa mới về quê vì không được đi xuất khẩu lao động) chúng tôi được biết, đầy đủ họ chỉ thông qua một người mô tả nào đó để đi đến các doanh nghiệp, các Trung tâm xuất khẩu lao động tải ký xuất khẩu lao động. Đến các công ty hay Trung tâm này, họ cũng được yêu cầu nộp hồ sơ, đóng tiền phí và được học tiếng của nước mình sẽ đi xuất khẩu lao động. Song có một điều quan trọng mà họ chẳng phải được biết là doanh nghiệp nước ngoài nào thuê mình, vì trong hợp đồng mang người lao động đi sử dụng việc ở nước ngoài do các doanh nghiệp, các Trung tâm cấp cho họ, chẳng phải ghi tên và số của hợp đồng cung ứng lao động. Mà bản hợp đồng này chỉ có giá trị sử dụng thủ tục vay tiền ngân hàng. Họ được học trong một thời gian dài nhưng k được ký hợp đồng. Có người vừa mới học xong tiếng để đi Hàn Quốc, nhưng lại phải chuyển qua lớp học tiếng Đài Loan, vì Trung tâm thông báo nhu cầu của bên Hàn Quốc hiện thời k có. Lúc đầu, các doanh nghiệp, Trung tâm cũng thông báo thời gian xuất cảnh đi lao động, nhưng đến hạn lại thông báo chuyển sang thời điểm khác vì nhiều lý do khác nhau.
Hơn thế nữa, ngay cả đối với những trường hợp đã được xuất khẩu lao động thì quyền và ích lợi của những người lao động này cũng không được bảo đảm đầy đủ. Nhiều công ty dịch vụ đã không thực hiện đúng các nghĩa vụ đã cam kết sau khi họ mang người lao động ra làm việc ở nước ngoài. Tại mục e khoản 2 Điều 27 Luật Người lao động Viet Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 cũng vừa mới quy định cho các doanh nghiệp dịch vụ cần phải có nghĩa vụ:
“Phối hợp với bên nước ngoài giải quyết các chủ đề phát sinh khi người lao động chết, bị tai nạn lao động, tai nạn nguy cơ, bị bệnh ngành nghiệp, bị xâm hại tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản và khắc phục tranh chấp liên quan tới người lao động.”
Nhưng thực tiễn thì hiện tượng người lao động của Viet Nam không được bảo vệ thích đáng trong công cuộc lao động còn xảy ra khá phổ biến, vì khi sang nước ngoài họ không phải liên lạc được với công ty dịch vụ đã đưa mình đi cũng như không có tổ chức nào ở nước ngoài đứng ra bảo vệ họ.
Sau một thời gian ứng dụng Luật Người lao động Viet Nam đi sử dụng việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006 (có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007), đến nay, Luật vẫn chưa thực sự mang lại kết quả giống như trông đợi. Nhiều điều khoản trong Luật này chưa được ứng dụng, thực thi nghiêm chỉnh.Và bên cạnh đó, Luật cũng còn có những hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung để đảm bảo quyền lợi cho người lao động, Nhiệm vụ cho các công ty hoạt động xuất khẩu lao động. gợi ý như Điều 27 quy định về quyền và Nhiệm vụ của các công ty dịch vụ, cần bổ sung thêm quy định về thời hạn đưa người lao động đi xuất khẩu lao động tính từ ngày doanh nghiệp nhận hồ sơ của người lao động, nhằm yêu cầu công ty làm dịch vụ xuất khẩu lao động cần có trách nhiệm đưa người lao động xuất khẩu lao động đi đúng thời gian, đảm bảo ích lợi cho người lao động.
xem thêm: tình trạng sinh viên không có việc làm còn công ty không tuyển được lao động
2. nguyên nhân
Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân. không những thế, đủ nội lực nêu ra một số nguyên nhân chính như sau:
Thứ nhất, chúng ta chưa tạo được một cơ chế thuận tiện để người lao động tiếp cận được với các gốc thông tin về các vấn đề liên quan tới hoạt động xuất khẩu lao động. thành ra, người lao động thường chỉ nghiên cứu thông tin thông qua những người quen biết, những người đã đi làm ở người ngoài trở về và không ít những trường hợp phải nhờ “cò” mồi với nhiều thông tin không chính xác. Sự thiếu thông tin khiến cho những người lao động easy bị scam và không cân nhắc được hết các lợi ích và nguy cơ cho mình.
Thứ hai, việc thành lập các trung tâm, đơn vị có tính năng xuất khẩu lao động trong thời gian qua gia tăng nhanh, khiến cho công tác quản lý của các cơ quan có chức năng gặp nhiều khó khăn. ngày nay cả nước có hơn 150 doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động, các công ty này xây dựng các trung tâm và cơ sở một hướng dẫn tràn lan và k có sự giám sát, test chặt chẽ từ các doanh nghiệp, khiến cho trạng thái vi phạm pháp luật xảy ra ngày càng thông dụng. thích hợp đó, còn có hiện trạng doanh nghiệp bán giấy phép xuất khẩu lao động khiến cho việc giám sát, theo dõi càng trở nên khó khăn.
Thứ ba, các cơ quan cai quản còn tỏ ra thiếu kết quả. Các địa phương, nơi có các doanh nghiệp dịch vụ xuất khẩu lao động, vừa mới không nắm bắt được tình hình thực tế nên k biết được các hoạt động của các công ty, các trung tâm xuất khẩu lao động này. Khi xảy ra sai phạm rồi, các cơ quan cai quản mới biết. Nhưng thiệt hại đã xảy ra, những người của các doanh nghiệp dịch vụ đó đang chuyển đi ngành không giống (vì hầu hết các trụ sở là do họ thuê). Cuối cùng, người lao động vẫn là người phải gánh chịu hậu quả.
Thứ tư, hệ thống luật pháp điều chỉnh nội dung xuất khẩu lao động còn hạn chế, đặc biệt là trong vấn đề xử lý các sai phạm. Các chế tài tỏ ra thiếu mạnh mẽ và cứng rắn khiến cho việc tôn trọng pháp luật còn yếu.
3. Khuyến nghị
Thứ nhất, với người lao động, cần khai triển các hoạt động tuyên truyền, thông dụng nâng cao nhận thức về luật pháp, đặc biệt là Luật Người lao động Việt Nam đi sử dụng việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006. Nên lời khuyên rộng rãi đến người dân, khi có nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài thì người lao động cần liên hệ trực tiếp với Cục cai quản lao động ngoài nước và Sở Lao động – Thương binh và xã hội địa phương, các doanh nghiệp có chức năng xuất khẩu lao động. Khi đã đăng ký để xuất khẩu lao động ở các công ty có dấu hiệu trái pháp luật thì người lao động cần thông báo cho các cơ quan tính năng và hòa hợp với các cơ quan chức năng giải quyết những sai phạm đó.
Thứ hai, so với việc thành lập các đơn vị hoạt động xuất khẩu lao động, cần có những quy định chặt chẽ hơn để hạn chế những tổ chức k có quá đủ điều kiện, không đúng chức năng. Việc thanh lọc các đơn vị này sẽ khiến hạn chế các hành vi tiêu cực. Các công ty cần phải công bố thông tin một phương pháp công khai, minh bạch về các điều kiện, thủ tục, tiêu hợp lý tuyển lựa chọn, mức lương và nhất là chi phí xuất khẩu lao động so với từng thị trường; chỉ đạo và thống trị chặt chẽ các chi nhánh, trung tâm hoạt động theo đúng quy định của luật pháp.
Thứ ba, cơ quan có tính năng ở địa phương có các trụ sở của các công ty dịch vụ xuất khẩu lao động phải tăng cường check, giám sát các hoạt động, diễn biến tình hình xuất khẩu lao động của các doanh nghiệp này. Nắm bắt một cách kịp thời tình hình thực hiện pháp luật cũng như phát hiện sớm các sai phạm. giải quyết thích đáng đối với các trường hợp có dấu hiệu trái luật pháp. Trong nhiều trường hợp, khi sắp bị phát hiện sai phạm, hoặc đang thu tiền lừa đảo xuất khẩu lao động xong, các tổ chức xuất khẩu lao động lại chuyển qua địa bàn khác để hoạt động. do đó, các cơ quan tính năng ở các địa phương nên có sự kết hợp chặt chẽ với nhau để phát hiện.
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung nền tảng pháp luật một mẹo đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn, đồng thời ban hành chính sách, văn bản pháp luật về phòng chống, giải quyết các hành vi vi phạm trong hoạt động xuất khẩu lao động với các chế tài giải quyết ngày càng mạnh và kết quả hơn.
Thứ năm, hoạt động xuất khẩu lao động là một hoạt động cần có sự kết hợp giữa các các quốc gia có mối quan hệ xuất khẩu lao động. Trong tiến trình hợp tác này, chúng ta cần phải ký kết các điều ước quốc tế để xây dựng sự thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu lao động, cũng như có những cơ chế hữu hiệu nhất để bảo vệ quyền và lợi ích của người Việt Nam lao động ở nước ngoài
nguồn: https://luatminhkhue.vn
Discussion about this post